Năm 2014 là năm thứ 4 Việt Nam thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2011-2015. Trong năm 2014, tình hình kinh tế – xã hội Việt Nam diễn ra trước bối cảnh thế giới tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp. Kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn so với dự báo. Xung đột mâu thuẫn xảy ra ở nhiều nơi đặc biệt căng thẳng trên biển Đông. Trước tình hình đó, kinh tế – xã hội của Việt Nam vừa có những thuận lợi, nhưng cũng gặp không ít khó khăn rủi ro, thách thức, còn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp và diễn biến khó lường. Về cơ bản kinh tế vĩ mô được ổn định, lạm phát được kiểm soát. Tăng trưởng kinh tế có bước phục hồi nhưng môi trường kinh doanh và năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp.
1. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Theo số liệu do Tổng cục Thống kê công bố, năm 2014 là năm đầu tiên trong kế hoạch 5 năm (2011- 2015) kể từ 2011 đến nay, tăng trưởng kinh tế không chỉ về đích mà còn vượt kế hoạch. So với kế hoạch chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 5,8% mà Quốc hội đưa ra thì năm 2014 đạt 5,98% quả là con số đáng mừng cho nền kinh tế Việt Nam. Mức tăng trưởng năm 2014 cao hơn mức tăng trưởng 5,25% của năm 2012 và 5,42% của năm 2013 cho thấy dấu hiệu tích cực của nền kinh tế trước bối cảnh chính trị có nhiều bất ổn khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép Hải dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế lãnh thổ Việt Nam. Mức tăng trưởng có dấu hiệu hồi phục này đã giúp cho nền kinh tế vĩ mô có được sự ổn định – mục tiêu mà Việt Nam theo đuổi trong nhiều năm nay, đặc biệt là sau khi lạm phát lên tới trên 20% trong năm 2008 – năm đầu tiên Việt Nam chịu tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. con số tăng trưởng 5,98% được Tổng cục thống kê chính thức công bố đã khiến giới chuyên gia không khỏi bất ngờ.
Năng suất lao động của Việt Nam liên tục tăng trong thời gian qua, bình quân đạt 3,7%/năm trong giai đoạn 2005 – 2014, góp phần thu hẹp dần khoảng cách so với năng suất lao động của các nước trong khu vực. Năm 2012 tăng 3,05%, năm 2013 tăng 3,83%, năm 2014 tăng 4,34%, chủ yếu do chuyển dịch cơ cấu lao động từ ngành nông nghiệp có năng suất lao động thấp hơn sang các ngành công nghiệp, dịch vụ có năng suất lao động cao hơn. Trong đó năng suất lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,4%, công nghiệp và xây dựng tăng 4,3%, dịch vụ tăng 4,4%. Tuy nhiên, hiện nay năng suất lao động Việt Nam chỉ bằng 1/18 năng suất lao động của Singapore; bằng 1/6 của Ma-lai-xi-a; bằng 1/3 của Thái lan và Trung Quốc.
2. CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG – CPI
Theo báo cáo của Tổng cục thống kê cho thấy, năm 2014, cPI bình quân tăng 4,09% so với năm 2013, thấp hơn 1,95% so với năm 2013. cPI tháng 12/2014 tăng 1,84% so với cùng kỳ năm 2013. cPI tháng 12/2013 so với tháng 12/2012 tăng 6,04%; còn cPI bình quân năm 2013 so với năm 2012 là 6,04%. Năm 2013 là năm đầu tiên cPI phá vỡ chu kỳ “hai năm cao, một năm thấp”. Đây là nhịp tăng hiếm thấy trong nhiều năm qua. Kết quả cho thấy cPI năm 2014 có mức tăng khá thấp trong hơn một thập kỷ trở lại đây.
3. ĐẦU TƯ
3.1. Tình hình phát triển doanh nghiệp
Trong năm 2014, cả nước có 74.842 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 432,2 nghìn tỷ đồng, giảm 2,7% về số doanh nghiệp và tăng 8,4% về số vốn đăng ký so với năm 2013. Số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong năm đạt 5,8 tỷ đồng, tăng 11,5% so với năm 2013. các doanh nghiệp thành lập mới trong năm qua tạo công ăn việc làm cho 1.091.000 người, tăng 2,8% so với năm 2013. Như vậy, mặc dù vẫn chưa thực sự thoát khỏi bối cảnh khó khăn nhưng xét trên khía cạnh quy mô vốn, số lượng doanh nghiệp thành lập mới trong năm 2014 đã tăng hơn so với năm 2013. Đồng thời các doanh nghiệp cũng thực sự có chất lượng và linh hoạt để có thể tồn tại được trên thị trường với những cơ hội và thách thức gặp phải. Trong 12 tháng, cả nước có 15.419 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm 2013. Trong năm 2014, cả nước có 67.823 doanh nghiệp gặp khó khăn buộc phải giải thể, hoặc đăng ký tạm ngừng hoạt động có thời hạn, hoặc ngừng hoạt động chờ đóng mã số doanh nghiệp hoặc không đăng ký, bao gồm 9.501 doanh nghiệp đã hoàn thành thủ tục giải thể, giảm 3,2% so với năm trước, số lượng doanh nghiệp giải thể phần lớn là những doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng.
3.2. Cơ cấu đầu tư
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện năm 2014 theo giá hiện hành đạt 1.220,7 nghìn tỷ đồng, tăng 11,5% so với năm 2013 và bằng 31% GDP, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 486,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 39,9% tổng vốn và tăng 10,1% so với năm 2013; Vốn khu vực ngoài Nhà nước đạt 468,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 38,4% và tăng 13,6%; Vốn khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 265,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 21,7% và tăng 10,5%.
4. XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HÓA
Năm 2014, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 150 tỷ USD, tăng 13,6% so với năm 2013. Đây là một con số đáng ghi nhận, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 48,4 tỷ USD tăng 10,4%, mức tăng cao nhất từ năm 2012. Với tổng kim ngạch đã đạt được thì con số trên đã vượt xa chỉ tiêu đề ra. Xuất khẩu năm 2014 tiếp tục giữ được đà xuất siêu trong 3 năm liên tiếp gần đây sau nhiều năm Việt Nam luôn nhập siêu và góp những “gam màu tươi sáng” vào toàn cảnh bức tranh kinh tế chung của cả nước.
5. TRIỂN VỌNG KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2015
Theo dự báo của IMF, nền kinh tế thế giới năm 2015 sẽ phục hồi mạnh hơn, tăng trưởng toàn cầu được dự báo là 4% tăng 0,6 điểm % so với dự báo tăng trưởng năm 2014. Song bên cạnh đó tình hình chính trị vẫn còn nhiều biến động: cuộc khủng hoảng và cuộc chiến chống Nhà nước Hồi giáo IS ở Trung Đông, cấm vận của phương Tây với Nga… sẽ tác động đến nền kinh tế toàn cầu. Sự hồi phục của nền kinh tế Việt Nam trong năm 2014 là cơ sở quan trọng để các chuyên gia kinh tế thống nhất quan điểm và đặt ra mục tiêu: tăng trưởng 6,2%, lạm phát khoảng 5% trong năm 2015 là hợp lý. Trong năm 2015, Việt Nam sẽ sớm thực hiện các cam kết theo các Hiệp định mới ký kết gồm: Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc, Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và liên minh Hải quan Nga-Belarus-Kazakhstan. Đồng thời, tiếp tục đàm phán Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – EU, Hiệp định Đối tác Kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) và tham gia cộng đồng Kinh tế ASEAN, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho kim ngạch xuất khẩu Việt Nam và thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP năm 2015. Việc thực thi các hiệp định thương mại trong thời gian tới sẽ khiến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2015 tăng mạnh hơn so với năm 2014.
Theo Vietnam Report
Sách trắng kinh tế Việt nam 2014 - Dự báo 2015



Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét